22/09/2024
Bệnh đục thể thuỷ tinh: chẩn đoán và điều trị
Đục thể thuỷ tinh là tình trạng thể thuỷ tinh mất dần tính chất trong suốt của nó và thường dẫn đến giảm thị lực. Tuy nhiên, đôi khi có những vùng đục thể thuỷ tinh nhỏ và hầu như không tiến triển, do đó ít ảnh hưởng đến thị lực.
Có nhiều cách phân loại đục thể thuỷ tinh. Phân loại theo căn nguyên dễ nhận biết hơn cả như:
Do tuổi già: có thể có các bệnh lý kèm theo cũng như các thuốc đang sử dụng như Đái tháo đường, các bệnh lý hệ thống viêm đa khớp, lupus, thuốc steroid….
Do chấn thương: do sang chấn đụng dập nhãn cầu hay vết thương xuyên nhãn cầu.
Do bệnh lý: do viêm màng bồ đào, trên mắt cận thị nặng, đái tháo đường, thiểu năng phó giáp trạng…
Do thuốc: sử dụng steroid toàn thân và tại mắt kéo dài
Do bẩm sinh: trẻ sinh ra đã bị đục (đồng tử trắng).
Do bất thường về hình dáng và vị trí của thể thuỷ tinh: Hội chứng Marfan, Weil Marchesani, Homocystinurie, thể thuỷ tinh nhỏ, hình cầu…
Đục thể thuỷ tinh do tuổi già hay gặp nhất, thường gặp ở người trên 50 tuổi. Theo thống kê của Mỹ, trong nhóm 55-64 tuổi có 41,7% bị đục thể thuỷ tinh với 4,5-5% giảm thị lực; trong nhóm tuổi từ 75-84 có 91% bị đục thể thuỷ tinh trong đó 45,5-59% giảm thị lực. Trên thế giới (theo WHO) hàng năm có khoảng 15,6 triệu người mù do đục thể thuỷ tinh cần phẫu thuật, là nguyên nhân gây mù hàng đầu chiếm 1/2 số người bệnh bị mù loà. Tại Việt Nam, tỷ lệ đục thể thuỷ tinh có chỉ định mổ khoảng 0,5% dân số.
Đặc điểm giải phẫu thể thuỷ tinh:
Sơ đồ cắt ngang thể thủy tinh. Các mũi tên chỉ hướng di chuyển của các tế bào từ biểu mô tới vỏ.
Bao thể thủy tinh là một màng đáy trong suốt, đàn hồi, cấu tạo bởi collagen loại IV, do các tế bào biểu mô sinh ra. Mặt sau của bao trước thể thủy tinh là 1 lớp đơn tế bào biểu mô. Lớp tế bào này không có màng đáy, chỉ có ở mặt trước và phần trước của xích đạo thể thủy tinh. Các tế bào biểu mô tập trung thành một vòng xung quanh mặt trước của thể thủy tinh tạo thành vùng sinh sản. Các tế bào biểu mô có tính chất gián phân và hoạt động tổng hợp AND. Kì tiền gián phân xảy ra mạnh nhất ở vùng sinh sản. Những tế bào mới di chuyển về phía xích đạo, ở đây chúng biệt hóa thành các sợi thể thủy tinh. Trên tiêu bản cắt dọc tương ứng với vùng xích đạo thể thủy tinh quan sát thấy các tế bào biểu mô kéo dài và biến thành các sợi thể thủy tinh.
Đục thể thuỷ tinh người già:
Giả thuyết cơ chế bệnh sinh:
Hiện nay người ta cho rằng cùng với sự lão hoá, các yếu tố nguy cơ làm giải phóng gốc oxy tự do và làm oxy hoá các phần tử lipid màng, protein men hoặc protein cấu trúc DNA… Từ đó dẫn tới mất cân bằng ở lớp vỏ gây ứ nước, tạo hốc hoặc khe phân tách các sợi và hoá lỏng. Ở nhân, các protein bị đứt đoạn tạo nên các protein có trọng lượng phân tử cao, đồng thời ứ đọng các acid amin có màu như Urochrome. Về mặt giải phẫu bệnh, ở lớp vỏ các sợi thể thuỷ tinh ngấm nước và sưng to, đồng thời xuất hiện các thể cầu ưa eosin nằm giữa các sợi thể thuỷ tinh, ở nhân không còn thấy sự phân lớp giữa các sợi thể thuỷ tinh, do nhân trở nên có cấu trúc gần như thuần nhất.
Thường trong đục thể thuỷ tinh tuổi già còn kèm theo nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đục như:
Bệnh đái tháo đường.
Thuốc steroid uống lâu dài như trong một số bệnh hệ thống: viêm đa khớp, Lupus, viêm cầu thân, hội chứng thận hư…hoặc nhỏ thuốc có corticoid không đúng cách kéo dài tại mắt.
Tia cực tím.
Thuốc lá, rượu.
Dinh dưỡng: thiếu các chất chống oxy hoá (Vitamin A, C, E, Zn, Selen…
Hình thái và giai đoạn đục thể thuỷ tinh:
Đục nhân: nhân xơ cứng có màu vàng nâu, nâu sẫm hoặc đen, tiến triển chậm, thị lực nhìn xa giảm nhiều hơn nhìn gần.
Đục chín trắng, căng phồng: thể thuỷ tinh đục hoàn toàn thị lực chỉ còn bóng bàn tay hay chỉ phân biệt được sáng tối, rất dễ gây biến chứng tăng glocom, viêm màng bồ đào.
Đục dưới bao sau, đục cực sau: chất nhân ngay trước bao sau thể thuỷ tinh đục, tạo mảng óng ánh dưới bao sau, lan từ trung tâm dần ra ngoại vi, gây giảm nhiều thị lực đặc biệt là gây chói, loá mắt.
Đục bao trước: lớp bao trước đục dạng xơ trăng, thường bắt đầu từ trung tâm, dần tảo lan ra xung quanh mặt bao, làm mất thị lực và chói sáng.
Điều trị và dự phòng:
Nội khoa: Thuốc tra mắt hoặc uống các thuốc có chứa các Vitamin và các acid amin có tác dụng chống oxy hoá như Vitamin C, E, Zn, Selen… nhưng hiệu quả của chúng vẫn chưa được chứng minh rõ ràng.
Ngoại khoa: phẫu thuật là phương pháp hiệu quả đã được thực tế chứng minh rõ ràng, phục hồi và trả lại thị lực tốt cho người bệnh.
Chỉ định: hiện nay do hiệu quả và tính an toàn ngày càng cao của phẫu thuật, chỉ định mổ thay thể thuỷ tinh ngày càng rộng rãi hơn cho người bệnh có đục thể thuỷ tinh ngay cả khi lực giảm chưa nhiều, nhưng ảnh hưởng tới quá trình làm việc và sinh hoạt của người bệnh, tiến tới một nấc thang cao hơn là biến mổ thể thuỷ tinh thành mổ khúc xạ, trả lại thị lực tốt nhất cho người bệnh.
Chống chỉ định: với những mắt đã mất hoàn toàn thị lực (không nhận biết được ánh sáng), những mắt đang có viêm nhiễm, hay tình trạng toàn thân người bệnh không cho phép như nhiễm trùng cấp, tăng huyết áp và đái tháo đường chưa được điều trị hoặc điều trị chưa ổn định, ưu tiên các cấp cứu có nguy cơ ảnh tới tính mạng…
Khuyến nghị:
Đục thể thuỷ tinh là bệnh thường gặp do tuổi già. Tuy thuốc điều trị còn hạn chế về tác dụng, nhưng là bệnh được chữa khỏi hoàn toàn bằng phẫu thuật, trả lại thị lực tối đa cho người mắc bệnh. Tại Khoa Mắt bệnh viện Bưu điện mỗi năm có hàng nghìn người mắc bệnh đục thể thuỷ tinh được chữa khỏi.
Thay đổi các thói quen không tốt ảnh hưởng tới tiến triển của bệnh đục thể thuỷ tinh như thuốc lá, rượu. Chế độ ăn uống cân đối, tăng cường các Vitamin có tác dụng chống lão hoá như Vitamin A, C, E, Zn, Selen…
Trong sinh hoạt, lao động cần tự ý thức đeo kính chắn bảo hộ mắt, tránh tác động không tốt của tia tử ngoại, tránh chấn thương mắt, hoá chất độc hại.
Tuyệt đối không tự sử dụng thuốc tra mắt bừa bãi, nên sử dụng theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa Mắt, tránh những tác dụng phụ đáng tiếc có thể xảy ra.
Phó trưởng khoa Mắt- BV Bưu Điện
BSNT Nguyễn Quý Đông