Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne là một tình trạng đột biến di truyền hiếm gặp, được đặc trưng bởi sự tổn thương và yếu cơ tiến triển. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em nam. Trong các nghiên cứu ở Châu Âu và Bắc Mỹ, tỷ lệ mắc bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne dao động từ 1 trên 3.500 đến 1 trên 5.050 bé trai còn sống.
Nguyên nhân
Loạn dưỡng cơ Duchenne là một rối loạn di truyền. Về mặt di truyền, nhiễm sắc thể là bộ phận của tế bào mang DNA của con người. Người khoẻ mạnh thường có 46 nhiễm sắc thể, chia thành 23 cặp, được thừa hưởng từ cha mẹ. Trong 23 cặp nhiễm sắc thể này có một cặp nhiễm sắc thể quyết định em bé là trai hay gái. Con gái có một nhiễm sắc thể X từ mẹ và một nhiễm sắc thể X từ cha, trong khi con trai có một nhiễm sắc thể X từ mẹ và một nhiễm sắc thể Y từ cha. Loạn dưỡng cơ Duchenne liên quan tới gen lặn trên nhiễm sắc thể X, vì vậy bệnh thường thấy ở bé trai.
Nguyên nhân của bệnh do đột biến gen DMD- gen lặn liên kết với nhiễm sắc thể X, ngăn cơ thể sản xuất một loại protein tên là dystrophin. Gen dystrophin là gen lớn nhất được xác định ở người. Protein dystrophin là một protein khung tế bào quan trọng, giúp khung tế bào của mỗi sợi cơ kết nối với lớp nền bên dưới. Sự thay đổi hoặc mất đi dystrophin sẽ đẩy lượng canxi quá mức vào màng tế bào, dẫn đến hình thành lượng nước dư thừa trong ty thể, gây rối loạn và hoại tử ty thể của cơ. Không có dystrophin, cơ bắp ngày càng bị tổn thương và yếu đi, đồng thời mất khả năng sửa chữa sau chấn thương.
Phần lớn các đột biến được xác định là đột biến mất đoạn, chiếm khoảng 60-65% bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne. Khoảng một phần ba số người bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne do các đột biến mới, còn lại được di truyền từ mẹ mang gen bệnh hoặc phát sinh từ bệnh khảm dòng tế bào mầm.
Một mRNA xuất phát từ gen dystrophin và chứa 79 exon được liên kết với nhau để tạo thành protein dystrophin.
Các đột biến hoặc sai sót gen dystrophin bao gồm:
Mất đoạn lớn: Một hoặc nhiều exon bị thiếu trong gen dystrophin
Nhân đôi lớn: Một hoặc nhiều exon có thêm bản sao trong gen dystrophin
Những thay đổi khác: Những thay đổi nhỏ, chẳng hạn như xoá nhỏ
Dấu hiệu và triệu chứng của loạn dưỡng cơ Duchenne
Các dấu hiệu thường gặp của loạn dưỡng cơ Duchenne có thể chia thành hai nhóm: các dấu hiệu vận động và các dấu hiệu ngoài vận động.
Các dấu hiệu vận động: khó khăn hoặc chậm vận động
Các dấu hiệu ngoài vận động:
Tiến triển của bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne
Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne làm yếu các cơ theo thời gian, và một khi mô cơ bị tổn thương sẽ không thể sửa chữa được, đó là lý do bệnh không thể hồi phục. Trong giai đoạn đầu, bệnh chủ yếu ảnh hưởng đến các cơ ở hông và đùi, gây khó khăn khi đứng, leo cầu thang và giữ thăng bằng.
Khi bệnh tiến triển sẽ ảnh hưởng đến các cơ ở vai và cánh tay, dẫn đến khó khăn khi nâng cánh tay. Đồng thời ảnh hưởng các cơ khác ở thân và cơ hô hấp. Tốc độ tiến triển ở mỗi trẻ khác nhau tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố.
Từ 0 đến 4 tuổi: viêm ngay sau khi sinh, xơ hoá cơ xuất hiện sớm khi trẻ 1 tuổi, chậm vận động, chậm nói.
5 đến 7 tuổi: yếu cơ tiến triển, bắp chân to ra, đi bộ bằng ngón chân, khó khăn khi đứng, tích tụ mỡ trong cơ.
8 đến 11 tuổi: giảm khả năng đi lại, sử dụng xe lăn bán thời gian.
12 đến 19 tuổi: giảm chức năng chi trên, phổi và tim; mất đi lại; có thể phải hỗ trợ hô hấp, không thể thực hiện các hoạt động sinh hoạt hằng ngày.
Trên 19 tuổi: vấn đề tim ngày càng nặng, suy tim, suy hô hấp, tử vong…
Hiện nay, chưa có phương pháp điều trị hiệu quả nào cho người bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne. Vì vậy, cần phải chẩn đoán trước sinh và tư vấn di truyền để giảm tỷ lệ sinh những em bé trai bị bệnh.
Sàng lọc phôi liên quan đến bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Bưu Điện
Tầm quan trọng của việc phòng ngừa loạn dưỡng cơ Duchenne đã được nhấn mạnh rộng rãi khi không có biện pháp chữa trị nào đặc hiệu. Vì vậy, các cặp đôi chuẩn bị sinh con nên đi khám tiền hôn nhân để được tư vấn di truyền. Đối với các cặp vợ chồng có nguy cơ (từng sinh con bị bệnh, gia đình có người bị bệnh, hoặc đã phát hiện mang gen bệnh…), chúng tôi tiến hành tư vấn di truyền và đưa ra các giải pháp ngăn ngừa di truyền bệnh cho thế hệ tiếp theo, chẳng hạn như xét nghiệm sàng lọc người mang gen bệnh, hỗ trợ sinh sản bằng IVF – sàng lọc phôi và chẩn đoán trước sinh.
Đối với phương pháp chẩn đoán trước sinh bằng chọc ối hay sinh thiết gai rau và chỉ định chấm dứt thai kỳ với thai bị bệnh, cha mẹ có thể phải đối mặt với gánh nặng tinh thần hoặc những biến chứng liên quan đến phá thai. Do đó, việc xét nghiệm di truyền tiền làm tổ là một lựa chọn hợp lý. Cặp vợ chồng được xác định mang gen sẽ tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm tạo phôi, phôi được sinh thiết và phân tích gen bệnh. Chỉ những phôi không mang bệnh mới được chuyển vào tử cung.
Tại IVF Bưu Điện đã sàng lọc phôi bệnh cho rất nhiều cặp vợ chồng mang gen loạn dưỡng cơ Duchenne và sinh ra con khoẻ mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bianca Bianco, 1 Denise Maria Christofolini, 1 Gabriel Seixas Conceição, 1 and Caio Parente Barbosa 1Preimplantation genetic diagnosis associated to Duchenne muscular dystrophy. PMC 2017 Oct-Dec; 15(4): 489–491.
- Lee BL, Nam SH, Lee JH, Ki CS, Lee M, Lee J. Genetic analysis of dystrophin gene for affected male and female carriers with Duchenne/Becker muscular dystrophy in Korea. J Korean Med Sci. 2012;27(3):274–280. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]