1. Rung nhĩ là gì?
Rung nhĩ là một rối loạn nhịp nhĩ nhanh và không đều. Các triệu chứng bao gồm: đánh trống ngực, đôi khi mệt mỏi, giảm khả năng gắng sức, khó thở và thoáng ngất. Khi rung nhĩ, người bệnh có nguy cơ cao hình thành huyết khối trong tâm nhĩ, trôi theo dòng tuần hoàn gây đột quỵ.
Chẩn đoán bằng điện tâm đồ. Các phương pháp điều trị bao gồm: kiểm soát tần số tim bằng thuốc, dự phòng tắc mạch bằng thuốc chống đông và đôi khi chuyển nhịp về nhịp xoang bằng thuốc bằng bắc sốc điện.
Rung nhĩ có cơ chế do nhiều xung động và nhiều vòng vào lại hỗn độn trong cơ nhĩ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ổ ngoại vị trong các cấu trúc tĩnh mạch vị trí liền kề với mô cơ nhĩ (thường là tĩnh mạch phổi với nhĩ trái) là nguyên nhân khởi phát và duy trì rung nhĩ. Khi rung nhĩ, các tâm nhĩ không co bóp, rất nhiều xung khử cực nhĩ được dẫn truyền ồ ạt xuống nút nhĩ thất, làm cho tần số thất thường nhanh, không cố định và không đều.
Rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp tim phổ biến nhất, ảnh hưởng từ 3 đến 6 triệu người trưởng thành ở Hoa Kỳ. Nam giới và người Da trắng dễ bị rung nhĩ hơn nữ giới và người Da đen. Tỷ lệ hiện mắc tăng theo độ tuổi; gần 10% những người > 80 tuổi bị ảnh hưởng. Rung tâm nhĩ có xu hướng xảy ra ở những người bệnh có rối loạn cơ tim.
Các biến chứng của rung nhĩ
Khi rung nhĩ, tâm nhĩ không co bóp, dẫn đến máu luẩn quẩn trong tâm nhĩ và dễ hình thành cục máu đông, gây đột quỵ. Nguy cơ đột quỵ mỗi năm vào khoảng 7% ở người bệnh rung nhĩ. Nguy cơ đột quỵ cao hơn ở người bệnh cao tuổi và người bệnh có bệnh van tim do thấp, van tim cơ học, cường giáp, tăng huyết áp, đái tháo đường, giảm chức năng tâm thu thất trái hoặc tiền sử đã từng bị đột quỵ. Huyết khối gây tắc mạch hệ thống (ví dụ như động mạch vành, động mạch thận, động mạch mạc treo, động mạch mắt, động mạch chi) có thể gây ra hoại tử và rối loạn chức năng các cơ quan.
Rung nhĩ cũng gây giảm cung lượng tim. Việc tâm nhĩ không co bóp sẽ làm giảm cung lượng tim khoảng 10% với tần số tim bình thường. Người bệnh thường dung nạp tốt việc giảm cung lượng tim này trừ phi tần số thất quá nhanh (> 140 lần/phút), hoặc trên cơ sở người bệnh đã có sẵn cung lượng tim thấp hoặc ở mức ranh giới. Trong những trường hợp như vậy, tình trạng suy tim sẽ tiến triển nặng hơn.
Căn nguyên của rung nhĩ
Các triệu chứng và dấu hiệu của rung nhĩ
Rung tâm nhĩ thường không có triệu chứng, nhưng nhiều người bệnh có thể thấy đánh trống ngực, khó chịu trong ngực, hoặc triệu chứng của suy tim (ví dụ như suy nhược cơ thể, nhức đầu, khó thở), đặc biệt khi tần số thất rất nhanh (thường là 140-160 lần/phút). Người bệnh cũng có thể có triệu chứng và dấu hiệu đột quỵ cấp tính hoặc các tổn thương cơ quan khác do thuyên tắc mạch hệ thống.
Khám mạch thấy không đều và không có quy luật, không thấy sóng a của tĩnh mạch cổ. Có thể xuất hiện tình trạng thiếu mạch (nhịp thất ở đỉnh tim nhanh hơn nhịp sờ ở cổ tay) vì thể tích nhát bóp thất trái không phải lúc nào cũng đủ để tạo ra sóng áp lực ngoại vi cho một nhịp gần giống với nhịp trước đó.
Chẩn đoán rung nhĩ
Bác sĩ sẽ cho kiểm tra các phương pháp sau để chẩn đoán và tìm nguyên nhân gây rung nhĩ.
Điều trị rung nhĩ
Kiểm soát tần số bằng thuốc hoặc triệt đốt nút nhĩ – thất
Đôi khi kiểm soát nhịp bằng sốc điện chuyển nhịp đồng bộ, dùng thuốc hoặc triệt đốt cơ chất rung tâm nhĩ.
Dự phòng huyết khối tắc mạch.
Nếu nghi ngờ có rối loạn tiềm ẩn nghiêm trọng, người bệnh rung nhĩ mới khởi phát có thể được hỗ trợ khi nhập viện. Người bệnh bị các đợt tái phát không cần nhập viện trừ khi các triệu chứng khác cho thấy cần phải nhập viện. Một khi đã tìm ra và xử lý nguyên nhân, việc điều trị rung nhĩ tập trung vào kiểm soát tần số thất, chuyển nhịp và dự phòng huyết khối tắc mạch.
Nếu người bệnh có chống chỉ định với thuốc chống đông, có thể dùng phương pháp khâu thắt tiểu nhĩ trái hoặc bít tiểu nhĩ trái bằng dụng cụ qua đường mạch máu.