Dự án giải mã bộ gen người thành công năm 2003 đã làm bùng nổ một cuộc cách mạng y sinh học, giúp con người hiểu được những thay đổi trong bộ máy di truyền (còn gọi là bộ gen hoặc hệ gen) có thể là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh lý mà trước giờ chưa lý giải được. Những bệnh lý này được gọi là bệnh lý di truyền, nó vô cùng đa dạng, nằm trong tất cả các chuyên khoa: tim mạch, nội tiết, nhi khoa, sản khoa, huyết học, ung thư, dược… Việc tìm ra những thay đổi bất thường của hệ gen (được gọi là đột biến gen) sẽ giúp gia đình và người bệnh hiểu được nguyên nhân, cơ chế gây bệnh, từ đó sẽ tìm được cách điều trị thích hợp, tiên lượng bệnh và cách phòng tránh. Việc ứng dụng những thành tựu của giải trình tự hệ gen người trong chuyên ngành hỗ trợ sinh sản đã giúp các gia đình sinh con khỏe mạnh, không mang bệnh lý di truyền.
1. Tại sao cần sàng lọc người mang gen trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản?
Sàng lọc người mang gen là một phần quan trọng của quá trình chuẩn bị mang thai và chăm sóc trước khi sinh. Mục đích của sàng lọc người mang gen là xác định các cặp vợ chồng có nguy cơ di truyền bệnh cho con cái của họ. Rối loạn di truyền đang dần gia tăng đáng kể trong những thập kỷ qua, chủ yếu là do những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ phân tử cho phép hiểu rõ hơn về cơ chế di truyền và đạt được các chẩn đoán chính xác hơn. Bệnh di truyền đơn gen chiếm khoảng 39% của tất cả các tình trạng hiếm gặp. Người ta ước tính rằng bệnh đơn gen chiếm khoảng 10% nguyên nhân tử vong ở trẻ sơ sinh và từ 10% đến 34% số trẻ nhập viện.
Nhiều người trong chúng ta là người mang gen và không biết điều đó. Người mang gen là tình trạng mang một đột biến trên gen di truyền lặn, do đó thường không có triệu chứng lâm sàng ảnh hưởng đến sức khoẻ. Bệnh di truyền lặn chỉ biểu hiện khi người bệnh mang đồng thời hai đột biến trên cùng một gen và thường do di truyền từ bố và mẹ là người mang gen, khoẻ mạnh. Vì vậy, bất kì cặp vợ chồng nào mặc dù hoàn toàn khoẻ mạnh cũng đều có nguy cơ di truyền gen bệnh cho con. Sàng lọc người mang gen là biện pháp khoa học hữu ích giúp phát hiện các tình trạng có thể được điều trị ngay sau khi sinh hoặc trong khi mang thai.
Phát hiện người mang gen là cơ sở quan trọng để các bác sĩ tư vấn di truyền cho các cặp vợ chồng lựa chọn các biện pháp sinh sản phù hợp, đặc biệt khi quyết định thực hiện hỗ trợ sinh sản. Chẩn đoán di truyền tiền làm tổ đối với bệnh lý đơn gen (PGT-M) là kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao cho phép chẩn đoán phôi mang gen bệnh đã xác định ở bố mẹ để lựa chọn phôi khoẻ mạnh trước khi chuyển vào tử cung người mẹ. Do đó, để biện pháp hỗ trợ sinh sản đạt hiệu quả cao, việc phát hiện gen bệnh ở các cặp vợ chồng là vô cùng quan trọng, đặc biệt ở các cặp vợ chồng đã có tiền sử sinh con mắc bệnh hoặc trong gia đình có thành viên mắc bệnh.
2. Sàng lọc người mang gen bao gồm những bệnh nào?
Sàng lọc người mang gen bao gồm 2 nhóm bệnh di truyền dựa theo cơ chế di truyền:
- Bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường: Người mang gen thường khỏe mạnh và không có dấu hiệu của bệnh. Tuy nhiên, nếu cả cha và mẹ đều là người mang cùng một bệnh thì có 25% khả năng con sinh ra mắc bệnh. Ví dụ như bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia), teo cơ tuỷ,…
- Bệnh di truyền liên kết nhiễm sắc thể giới tính X: Người mang gen là người nữ (do mang hai nhiễm sắc thể giới tính X) và người bệnh thường là nam giới (chỉ có một nhiễm sắc thể X). Do đó nếu mẹ là người mang gen thì con trai có 50% nguy cơ mắc bệnh. Ví dụ như bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne,…
3. Sàng lọc bệnh lí di truyền đơn gen và IVF Bưu Điện
Theo thống kê mới nhất tại trung tâm trong 3 năm qua, chúng tôi đã tiến hành làm IVF cho 211 gia đình mang gen bệnh tan máu bẩm sinh Thalassemia, 59 gia đình mang bệnh lí di truyền do đột biến gen khác liên quan đến các bệnh: teo cơ tủy, loạn dưỡng cơ Duchenne, bại não, loạn sản sụn xương, rối loạn chuyển hóa chất béo, rối loạn chuyển hóa acid uric, tim bẩm sinh, câm điếc bẩm sinh, khô da sắc tố,... Tính đến thời điểm hiện tại, IVF Bưu Điện đã ghi nhận hơn 100 em bé sinh ra nhờ sàng lọc gen bệnh Thalassemia, hơn 30 em bé sinh ra nhờ sàng lọc bệnh lý đơn gen khác đã sinh ra khỏe mạnh nhờ phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Một số nhóm bệnh lý di truyền phổ biến:
Nhóm bệnh huyết học di truyền: Các bệnh di truyền về huyết học bao gồm bệnh Thalassemia, thiếu máu hồng cầu hình liềm, bệnh máu khó đông Hemophilia,…
Thalassemia là bệnh lý di truyền phổ biến nhất ở Việt Nam với 13% dân số mang gen, tức là trong 10 người sẽ có ít nhất 1 người mang gen, vì vậy xác suất 2 người cùng mang gen kết hôn là rất cao. Người bệnh thalassemia phải điều trị bằng truyền máu và thải sắt suốt đời với gánh nặng về suy giảm thể chất, áp lực tâm lý, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của chính người bệnh và vô hình trung trở thành gánh nặng về kinh tế cho gia đình và xã hội. Do đó, sàng lọc người mang gen trong cộng đồng là rất quan trọng, Bộ Y Tế đã khuyến cáo sàng lọc thalassemia cho tất cả các thai phụ ngay khi biết mang thai.
Nhóm bệnh loạn dưỡng cơ: Teo cơ tủy, Bệnh loạn lưỡng cơ Duchenne,…
Bệnh loạn dưỡng cơ gồm hơn 30 tình trạng di truyền gây yếu cơ và các triệu chứng liên quan đến cơ khác do khiếm khuyết ở một hoặc nhiều gen cần thiết cho cấu trúc và chức năng cơ bình thường. Bệnh tiến triển tăng dần, trầm trọng theo thời gian. Các triệu chứng có thể xuất hiện từ sau sinh, hoặc khi còn nhỏ hoặc phát triển ở tuổi trưởng thành tùy theo bệnh.
Teo cơ tủy (SMA) là một nhóm các bệnh di truyền phá hủy dần các tế bào thần kinh vận động - các tế bào thần kinh trong thân não và tủy sống dẫn đến các biểu hiện chính như: vận động khó khăn, yếu cơ từ gốc chi đến ngọn chi, giảm trương lực cơ, mất hoặc giảm phản xạ. Hiện nay, chưa có phương pháp điều trị triệt để, chủ yếu điều trị triệu chứng rất khó khăn và tốn kém. Bệnh do đột biến trên gen SMN1 di truyền lặn trên NST thường. Tỷ lệ mang gen trong quần thể là 1/50, vì vậy các cặp đôi trước khi sinh con hoặc trước khi kết hôn nên sàng lọc gen bệnh này, đặc biệt là trong các trường hợp có tiền sử mắc bệnh hoặc có biểu hiện lâm sàng nghi ngờ mắc bệnh.
Bệnh loạn lưỡng cơ Duchenne gây nên do đột biến gen Dystrophin, nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, do đó bệnh thường gặp ở nam giới với tỷ lệ 1:5000 và phần lớn mẹ là người mang gen bệnh và di truyền cho con trai. Bệnh biểu hiện yếu cơ gốc chi tiến triển, trẻ thường mất khả năng đi lại trước 12 tuổi. Người bệnh có thể tử vong do suy hô hấp. Đối với bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, phòng bệnh rất quan trọng. Xét nghiệm chỉ số men cơ Creatinin kinase (CK) có thể thực hiện trong chương trình sàng lọc người mang gen DMD quy mô lớn. Tuy nhiên khoảng 30% đến 50% người mang gen bệnh không có CK tăng cao. Xét nghiệm di truyền phát hiện đột biến gây bệnh trên gen DMD là biện pháp chẩn đoán xác định bệnh và người mang gen. Đây cũng là cơ sở tư vấn di truyền cho gia đình và các thành viên khác, giúp các cặp vợ chồng lên kế hoạch mang thai khoẻ mạnh.