Tối ưu hóa khả năng sinh sản tự nhiên khi nào cần đánh giá về di truyền
1. Sinh sản và tuổi tác
Khả năng sinh sản được định nghĩa là khả năng sinh con. Khả năng thụ thai nói chung là cao nhất trong vài tháng đầu giao hợp không dùng các biện pháp tránh thai và giảm dần sau đó. Khoảng 80% các cặp vợ chồng sẽ thụ thai trong 6 tháng đầu tiên quan hệ mà không sử dụng các biện pháp tránh thai. Khả năng sinh sản tự nhiên sẽ giảm dần theo tuổi mẹ
Vô sinh là một bệnh, được định nghĩa là không đạt được một thai kỳ thành công sau 12 tháng trở lên khi quan hệ mà không dùng các biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên nếu người phụ nữ trên 35 tuổi việc đánh gía khả năng sinh sản và can thiệp nên thực hiện sớm nếu quan hệ tự nhiên không có thai trong vòng 6 tháng.
2. Cửa sổ thụ thai
Cửa sổ thụ thai được xác định tốt nhất là khoảng thời gian 6 ngày kết thúc vào ngày rụng trứng. Khả năng sinh sản cao nhất đã được quan sát khi giao hợp xảy ra trong vòng 2 ngày trước khi rụng trứng và bắt đầu giảm khi giao hợp xảy ra vào ngày rụng trứng.
3. Ngày rụng trứng xác định như thế nào?
Sử dụng các phương pháp theo dõi khả năng sinh sản để xác định cửa sổ thụ thai và giao hợp thời gian thích hợp có liên quan đến việc tăng xác suất thụ thai trong chu kỳ rụng trứng. Các phương pháp theo dõi bao gồm phương pháp lịch (có hoặc không có sự trợ giúp của ứng dụng điện thoại thông minh), theo dõi chất nhầy cổ tử cung, xét nghiệm hoặc dụng cụ phát hiện rụng trứng và theo dõi nhiệt độ cơ thể.
Phương pháp lịch dựa trên độ dài của chu kỳ kinh nguyệt: theo textbook phụ khoa cho rằng đối với tất cả phụ nữ, độ dài của giai đoạn hoàng thể được cho là khoảng 14 ngày. Do đó, ngày rụng trứng được đặt vào chu kỳ ngày 14 đối với người phụ nữ có chu kỳ 28 ngày, ngày 16 đối với người phụ nữ có chu kỳ 30 ngày.
Theo dõi chất nhầy cổ tử cung: xác suất cao nhất có thai khi chất nhầy trơn và trong
Xét nghiệm hoặc dụng cụ phát hiện rụng trứng bằng cách đánh giá LH có trong nước tiểu hoặc máu giúp xác định ngày rụng trứng.
Trước khi rụng trứng, nhiệt độ cơ thể thường nằm trong khoảng từ 36,2 – 36,5°C. Khi bắt đầu rụng trứng, cơ thể bạn sẽ có những thay đổi về hormone. Những thay đổi này khiến nhiệt độ cơ thể bạn tăng lên đến 37°C. Nếu nhiệt độ tăng lên ổn định và kéo dài trong 3 ngày, điều đó có nghĩa là bạn đã bắt đầu rụng trứng.
4. Tần suất quan hệ?
Một quan niệm sai lầm được truyền bá rộng rãi là xuất tinh thường xuyên làm giảm khả năng sinh sản của nam giới. Một nghiên cứu hồi cứu đã phân tích gần 10.000 mẫu tinh dịch quan sát thấy ở những người đàn ông có chất lượng tinh dịch bình thường, nồng độ tinh trùng và khả năng vận động vẫn bình thường ngay cả khi xuất tinh hàng ngày. Các cặp vợ chồng nên được thông báo rằng hiệu quả sinh sản tăng theo tần suất giao hợp và cao nhất khi giao hợp xảy ra cứ sau 1 đến 2 ngày trong cửa sổ thụ thai, nhưng nên lưu ý rằng tần suất giao hợp tối ưu được xác định tốt nhất bởi sở thích của riêng cặp vợ chồng bởi căng thẳng quá mức cũng làm giảm tỷ lệ có thai.
5. Thực hành quan hệ như thế nào?
Mặc dù nhiều phụ nữ nghĩ rằng nằm ngửa trong một khoảng thời gian sau khi giao hợp tạo điều kiện cho tinh trùng vận chuyển và ngăn chặn rò rỉ tinh dịch từ âm đạo, niềm tin này không có nền tảng khoa học. Không có bằng chứng cho thấy tư thế quan hệ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Một số chất bôi trơn âm đạo có thể làm giảm khả năng sinh sản trên cơ sở ảnh hưởng quan sát được của chúng đối với sự sống sót, khả năng vận động, tốc độ của tinh trùng . Tuy nhiên nếu chất bôi trơn gốc hydroxyethylcellulose thì không có tác động như vậy. Cho nên nếu cặp vợ chồng có sử dụng chất bôi trơn thì cần chú ý đến thành phần.
6. Chế độ ăn kiêng và lối sống
Mặc dù lối sống lành mạnh có thể giúp cải thiện khả năng sinh sản ở phụ nữ bị rối loạn chức năng rụng trứng, nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy sự thay đổi chế độ ăn uống, như chế độ ăn chay, chế độ ăn ít chất béo, chế độ ăn giàu vitamin, chất chống oxy hóa, hoặc phương thuốc thảo dược, cải thiện khả năng sinh sản ở phụ nữ mà không bị rối loạn chức năng rụng trứng hoặc ảnh hưởng đến giới tính của trẻ sơ sinh. Nhìn chung, thiếu bằng chứng mạnh mẽ là các can thiệp chế độ ăn uống và lối sống cải thiện khả năng sinh sản tự nhiên, mặc dù điều chỉnh chế độ ăn uống và lối sống có thể được khuyến nghị để cải thiện sức khỏe tổng thể.
- Hút thuốc
Hút thuốc có tác dụng có hại đáng kể đến khả năng sinh sản. Quan sát rằng thời gian mãn kinh xảy ra ở người phụ nữ hút thuốc sớm hơn 1 đến 4 năm so với phụ nữ không hút thuốc cho thấy hút thuốc có thể làm tăng tốc độ suy giảm nang trứng. Hút thuốc cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ sảy thai. Mật độ tinh trùng giảm và khả năng vận động và bất thường trong hình thái tinh trùng đã được quan sát thấy ở những người đàn ông hút thuốc.
- Rượu
Việc tiêu thụ rượu nên chấm dứt hoàn toàn khi mang thai, vì rượu có tác dụng bất lợi được ghi nhận rõ ràng đối với sự phát triển của thai nhi. Sự phụ thuộc rượu mãn tính ở nam giới có liên quan đến số lượng tinh trùng thấp hơn, khả năng vận động của tinh trùng, điểm hình thái tinh trùng, thể tích tinh dịch và nồng độ testosterone trong huyết thanh. Lạm dụng rượu cũng liên quan đến việc tăng nguy cơ rối loạn chức năng tình dục ở nam và nữ, với nguy cơ rối loạn chức năng xuất tinh, xuất tinh sớm, giảm ham muốn tình dục và khô âm đạo.
- Caffeine
Mức tiêu thụ caffeine cao ( 500 mg; > 5 tách cà phê mỗi ngày hoặc tương đương) có liên quan đến việc giảm khả năng sinh sản. Khi mang thai, tiêu thụ caffeine trên 200 đến 300 mg mỗi ngày (2 – 3 cốc mỗi ngày) có thể làm tăng nguy cơ sảy thai nhưng không ảnh hưởng đến nguy cơ dị tật bẩm sinh.
- Cần sa và các loại thuốc gây nghiện khác
Đàn ông hút cần sa đã được báo cáo có số lượng tinh trùng thấp hơn 29% so với những người đàn ông chưa bao giờ hút cần sa. Việc sử dụng các loại thuốc gây nghiện khác của nam giới và phụ nữ mong muốn mang thai cũng không được khuyến khích vì những rủi ro của thai kỳ và các biến chứng sơ sinh.
- Tiếp xúc với môi trường độc hại
Việc tiếp xúc với các hóa chất môi trường tổng hợp và tự nhiên trong thực phẩm, nước, không khí và các sản phẩm tiêu dùng có thể góp phần làm giảm khả năng sinh sản ở nam giới và phụ nữ chẳng hạn như phthalates, bisphenol A ,triclosan, thuốc trừ sâu…
Nhìn chung, đàn ông và phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên được khuyến khích để hạn chế tiếp xúc với các hóa chất gây rối loạn nội tiết trong thực phẩm, không khí, nước,và các sản phẩm mỹ phẩm.
7. Yếu tố di truyền cần được đánh giá khi nào?
Các cặp vợ chồng hiếm muộn nên kiểm tra đánh giá các yếu tố di truyền có thể có như nhiễm sắc thể, gen di truyền trong các trường hợp hiếm muộn lâu năm > 2 năm, hoặc có tiền sử như lưu thai, xảy thai liên tiếp, sinh con hoặc thai nhi bị dị tật, tiền sử bản thân hoặc gia đình mang các gen gây bệnh. Khi đó vợ chồng người bệnh cần được tư vấn và đánh giá bởi các chuyên gia di truyền học, nhằm mục đích phát hiện và điều trị để sinh ra em bé khỏe mạnh.