Cấu tạo của tai được chia làm 3 phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong. Trong đó, tai giữa nằm ở phía trong của màng nhĩ. Viêm tai giữa cấp tính là tình trạng viêm niêm mạc tai giữa diễn biến trong vòng 1 tháng. Viêm tai giữa có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi song phổ biến nhất là trẻ em từ 6-36 tháng tuổi do cấu trúc tai chưa phát triển hoàn chỉnh, miễn dịch yếu.
Viêm tai giữa cấp tính là gì?
Cấu tạo của tai được chia làm 3 phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong. Trong đó, tai giữa nằm ở phía trong của màng nhĩ. Viêm tai giữa cấp tính là tình trạng viêm niêm mạc tai giữa diễn biến trong vòng 1 tháng. Viêm tai giữa có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi song phổ biến nhất là trẻ em từ 6-36 tháng tuổi do cấu trúc tai chưa phát triển hoàn chỉnh, miễn dịch yếu.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây bệnh
Viêm tai giữa cấp tính do virus hoặc vi khuẩn trong tai giữa gây ra. Viêm tai giữa thường đi kèm với viêm nhiễm đường hô hấp. Ngoài ra, bệnh còn liên quan đến việc người bệnh bị các bệnh dị ứng, cảm lạnh, hút thuốc lá và khói thuốc, các bệnh nhiễm trùng khác.
Đối tượng dễ bị viêm tai giữa cấp tính bao gồm:
Trẻ sử dụng núm vú giả
Trẻ đi nhà trẻ
Trẻ bú bình
Người tiếp xúc với mức độ ô nhiễm không khí cao
Trải qua những thay đổi về độ cao
Dị tật bẩm sinh vùng mũi họng làm tăng nguy cơ viêm tai giữa
Triệu chứng của viêm tai giữa cấp tính
Biểu hiện của viêm tai giữa cấp ở từng giai đoạn có những triệu chứng khác nhau. Diễn biến bệnh chia làm 3 giai đoạn. Bệnh thường diễn ra trong hoặc sau khi người bệnh bị viêm mũi họng cấp.
Ở giai đoạn đầu, người bệnh có biểu hiện ù tai nhẹ, đau tai. Giai đoạn này khám soi tai thấy màng nhĩ bị sung huyết.
Ở giai đoạn 2 là giai đoạn ứ mủ ở tai giữa. Lúc này người bệnh đau nhiều, nghe kém, ù tai. Trong giai đoạn này người bệnh có thêm những triệu chứng toàn thân như sốt cao. Ở trẻ em có thể xuất hiện rối loạn tiêu hóa.
Giai đoạn ứ mủ tai giữa
Ở giai đoạn 3, mủ ở trong tai giữa căng lên và chảy ra ngoài gây thủng màng nhĩ. Lúc này các triệu chứng ù tai, đau tai giảm đi nhưng xuất hiện mủ chảy ra ngoài ống tai. Thường lỗ thủng do viêm tai giữa cấp tự liền. Khi lỗ thủng tồn tại có thể trở thành viêm tai giữa mãn tính.
Khi có các biểu hiện trên, người bệnh cần đi gặp bác sĩ để khám và điều trị. Nếu không điều trị sẽ dẫn đến nghe kém, hoặc chảy mủ tai kéo dài, khó khăn cho việc điều trị hoặc bệnh diễn biến thành viêm tai giữa mạn tính.
Điều trị viêm tai giữa cấp tính
Điều trị viêm tai giữa cấp bao gồm điều trị giảm đau, điều trị triệu chứng, sử dụng kháng sinh toàn thân hoặc tại chỗ.
Việc sử dụng kháng sinh trong điều trị viêm tai giữa cấp tùy thuộc vào từng giai đoạn, nguyên nhân gây bệnh. Có những trường hợp dùng kháng sinh ngay từ đầu. Trong trường hợp người bệnh chưa cần dùng kháng sinh, điều trị sẽ tập trung vào điều trị triệu chứng và theo dõi sau 48-72h đánh giá lại. Nếu tình trạng bệnh tiến triển không thuận lợi, có thể cho người bệnh sử dụng kháng sinh.
Viêm tai giữa cấp thường xuất hiện cùng viêm mũi họng, do đó người bệnh cần được điều trị toàn thân phối hợp. Trong trường hợp người bệnh sốt và đau nhiều do ứ mủ sẽ sử dụng thuốc giảm đau, chống viêm, thuốc loãng dịch... Trong trường hợp viêm tai giữa cấp có hiện tượng chảy mủ, người bệnh có thể sử dụng kháng sinh tại chỗ nhỏ qua ống tai ngoài vào tai giữa.
Biến chứng của viêm tai giữa cấp
Một trong những biến chứng thường gặp của viêm tai giữa cấp là viêm xương chũm cấp. Biến chứng này thường xảy ra trên cơ địa người bệnh suy giảm miễn dịch hoặc không được điều trị đúng cách.
Ngoài ra, viêm tai giữa cấp có khả năng gây liệt mặt ngoại biên, viêm màng não, biến chứng nội sọ... Tuy nhiên những biến chứng này rất ít gặp.
Việc điều trị viêm tai giữa cấp không đúng cách có thể gây viêm tai giữa ứ dịch kéo dài bán cấp hoặc mãn tính. Thậm chí trong nhiều trường hợp có thể để lại lỗ thủng ở màng nhĩ gây nghe kém.
6. Phòng ngừa bệnh viêm tai giữa cấp tính
Để phòng ngừa bệnh viêm tai giữa cấp tính, cần ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vệ sinh sạch sẽ các vật dụng xung quanh, giữ ấm cơ thể, tiêm phòng các bệnh hay mắc ở trẻ. Khi xuất hiện các triệu chứng của bệnh cần đến khám tại cơ sở y tế để có biện pháp điều trị phù hợp, không để bệnh diễn biến nặng sẽ điều trị khó khăn và khó phục hồi.