1. Khái niệm suy giãn tĩnh tĩnh mạch chi dưới
Suy giãn tĩnh mạch chi dưới là tình trạng suy giảm chức năng đưa máu về tim của hệ thống tĩnh mạch chi dưới. Từ đó, dẫn đến hiện tượng máu bị ứ đọng ở vùng chân, biến đổi về huyết động và gây biến dạng tổ chức mô xung quanh.
2. Nguyên nhân suy tĩnh mạch chi dưới : bệnh thường gặp ở:
- Người cao tuổi
- Phụ nữ mang thai
- Người béo phì
- Người ít vận động.
- Người có thói quen mang giày cao gót
- Người có thói quen mặc quần áo quá chật.
- Người có thói quen uống rượu bia.
3. Biểu hiện của suy giãn tĩnh mạch chân
- Suy giãn tĩnh mạch chi dưới độ 1: Người bệnh chưa có biểu hiện bệnh, không nhìn thấy hay sờ thấy được.
- Độ 2: Suy giãn tĩnh mạch chi dưới với đường kính trên 3 mm
- Độ 3: Có hiện tượng phù chi dưới nhưng chưa bị biến đổi trên da.
- Độ 4: Xuất hiện triệu chứng xơ mỡ da, chàm tĩnh mạch, loạn dưỡng gây biến đổi sắc tố da.
- Độ 5: Sắc tố da biến đổi kèm một vài vết loét đã lành.
- Độ 6: Sắc tố da biến đổi rõ rệt, các vết loét đang tiến triển, không lành.
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA SUY TĨNH MẠCH CHI DƯỚI
4. Chẩn đoán suy giãn tĩnh mạch chi dưới
- Lâm sàng:
Suy giãn tĩnh mạch có thể được chẩn đoán qua khai thác yếu tố nguy cơ, các triệu chứng của người bệnh. Ở người bệnh có mô dưới da mỏng, có thể nhìn và sờ thấy tĩnh mạch giãn ra và căng nhanh khi chuyển từ tư thế nằm sang đứng.
- Cận lâm sàng:
Siêu âm Doppler mạch máu: Siêu âm xác định chẩn đoán khi ghi nhận dòng trào ngược qua van tĩnh mạch với thời gian kéo dài >0.5 giây ở tĩnh mạch hiển và tĩnh mạch sâu ở cẳng chân hoặc >1 giây ở tĩnh mạch đùi khoeo. Siêu âm có thể xác định tổn thương của van tĩnh mạch hiển lớn, hiển bé, tĩnh mạch sâu và các van tĩnh mạch xuyên để giúp lựa chọn kỹ thuật điều trị phù hợp.
5. Biến chứng suy tĩnh mạch chi dưới
Bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới diễn biến âm thầm, có thể gây các biến chứng huyết khối tĩnh mạch nông và sâu gây đau, phù nề hai chi dưới. Nếu không được điều trị sớm, bệnh có thể gây chảy máu, loét không lành... ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh.
6. Điều trị suy giãn tĩnh mạch chi dưới
Suy giãn tĩnh mạch chi dưới thường là bệnh mạn tính, cần phối hợp nhiều biện pháp gồm thay đổi lối sống, thường xuyên tập thể dục, mang tất áp lực với các biện pháp can thiệp gồm nội khoa, can thiệp nội mạch và ngoại khoa. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các bác sĩ chọn phương pháp phù hợp, giúp người bệnh thoát khỏi đau đớn và ngăn ngừa những biến chứng nguy hiểm.
Thay đổi lối sống và phòng ngừa giãn tĩnh mạch chân
Áp dụng các biện pháp làm giảm tình trạng trào ngược van tĩnh mạch giúp phòng bệnh, cũng như cải thiện tình trạng bệnh. Người bệnh được khuyên tránh đứng hoặc ngồi lâu tại chỗ, thực hiện các bài tập suy giãn tĩnh mạch, để chân cao khi ngồi hay nằm nghỉ, tập hít thở chủ động, chế độ ăn có nhiều chất xơ tránh táo bón, béo phì…, mang vớ (tất) áp lực chuyên dụng.
Điều trị nội khoa
Các loại thuốc làm tăng độ vững bền thành tĩnh mạch như daflon, ginko biloba, vitamin C giúp cải thiện triệu chứng và làm chậm quá trình tiến triển bệnh. Tuy nhiên, các thuốc này chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của bệnh, hỗ trợ ổn định sau các điều trị nội mạch.
Loại bỏ tĩnh mạch nông bị bệnh
Suy giãn tĩnh mạch nông mức độ từ C2 đến C6 theo phân độ mô tả ở trên có chỉ định phẫu thuật hoặc laser hay sóng cao tần nội mạch nhằm mục đích loại bỏ tĩnh mạch nông bị bệnh.
Phẫu thuật
- Stripping: Lột bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn bằng một dụng cụ chuyên dùng luồn trong lòng mạch được gọi là phẫu thuật Stripping.
- CHIVA: là một phẫu thuật nhỏ với gây tê tại chỗ, chỉ cắt bỏ van bị tổn thương và lấy bỏ tĩnh mạch bàng hệ.
Laser hay sóng cao tần RFA can thiệp nội mạch
Các tĩnh mạch nông là tĩnh mạch hiển lớn hay tĩnh mạch hiển bé được chỉ định nếu có tổn thương được xác định trên siêu âm.
7. Chăm sóc và theo dõi sau phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch điều trị giãn tĩnh mạch chi dưới
Băng thun hoặc vớ (tất) tĩnh mạch ngày đầu sau phẫu thuật, thủ thuật và khi đứng dậy, đi lại ở những ngày sau. Vớ tĩnh mạch được khuyên tiếp tục sử dụng 10 ngày đến 3 tháng để tránh tình trạng phù chân. Người bệnh cần được tái khám, kiểm tra siêu âm sau 1 tháng, 6 tháng và mỗi 1-2 năm.