Tổn thương do tì đè là những vùng hoại tử và thường bị loét (còn gọi là loét do tì đè), nơi các mô mềm bị ép giữa phần nhô ra của xương và bề mặt cứng bên ngoài. Chúng được gây ra bởi áp suất cơ học không được tăng cường kết hợp với lực ma sát, lực cắt và độ ẩm.
I. Các yếu tố nguy cơ của thương tổn do tì đè bao gồm:
* Tuổi > 65
* Giảm khả năng vận động :nằm viện kéo dài, nghỉ ngơi tại giường, hôn mê, chấn thương tủy sống, an thần, suy nhược làm giảm khả năng cử động tự phát và/hoặc suy giảm nhận thức)
* Tiếp xúc với chất kích thích da (ví dụ, do tiểu không tự chủ và/hoặc đại tiện không tự chủ)
* Giảm khả năng sửa chữa làm lành vết thương (ví dụ, do suy dinh dưỡng; bệnh tiểu đường; suy giảm mô do bệnh động mạch ngoại vi; bất động; Suy tĩnh mạch)
* Giảm cảm giác
Thương tổn do tì đè cũng đã được báo cáo ở trẻ em bị suy giảm thần kinh nặng như nứt đốt sống, bại não và chấn thương tủy sống.
II. Các yếu tố chính gây loét do tì đè :
* Sức ép: Khi các mô mềm được nén giữa các điểm nhô của xương và bề mặt tiếp xúc trong một khoảng thời gian dài, sự tắc nghẽn mạch máu với thiếu máu cục bộ và thiếu oxy máu.
* Ma sát: Ma sát (cọ xát quần áo hoặc giường ngủ) có thể gây loét da bằng cách gây trợt tại chỗ và phá vỡ lớp biểu bì và bề mặt da.
* Lực mài: Lực mài góp phần gây thương tổn do tì đè nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp.
* Độ ẩm: Độ ẩm (ví dụ như mồ hôi, không tự chủ) dẫn đến sự phân hủy mô và sự điều tiết, có thể gây thương tổn do tì đè ban đầu hoặc làm nặng hơn tình trạng cũ.
Bởi vì cơ bắp dễ bị thiếu máu cục bộ hơn so với da, cơ thiếu máu cục bộ và hoại tử có thể gây tổn thương áp lực bên dưới, kết quả do sự ép kéo dài.
III.Các triệu chứng và dấu hiệu của thương tổn do tì đè
Loét do tì đè ở giai đoạn nào cũng có thể gây đau hoặc ngứa nhưng có thể không được cảm nhận bởi những người bệnh có giảm nhận thức hoặc cảm giác.
IV. Phân loại và giai đoạn loét do tì đè:
Giai đoạn I
Da còn nguyên vẹn với ban đỏ không thể bào mòn, thường là nổi rõ trênp xương.
Thay đổi màu sắc có thể không được nhìn thấy trong da tối màu.
Tổn thương này cũng có thể ấm hơn, lạnh hơn, cứng hơn, mềm hơn, hoặc căng hơn các mô liền kề hoặc đối diện.
Vết loét thực sự vẫn chưa xuất hiện.
Giai đoạn 2
Đặc trưng bởi tình trạng mất da dày một phần, mất lớp biểu bì (trợt hoặc mụn nước) có hoặc không có vết loét thực sự (khiếm khuyết vượt quá mức độ của lớp biểu bì); mô dưới da không bị lộ ra.
Thương tổn nông với nền màu hồng đến màu đỏ. Không có mô hoại tử ở đáy.
Giai đoạn 2 cũng bao gồm mụn nước nguyên vẹn hoặc vỡ một phần do áp lực.
Giai đoạn 3
Mất toàn bộ da với tổn thương mô dưới da kéo dài xuống (nhưng không bao gồm) lớp cơ dưới da.
Các vết loét biểu hiện như là sự mất hoàn toàn độ dày da mà không lộ phần cơ hoặc xương phía dưới.
Giai đoạn 4
Mất da toàn bộ với sự phá hủy toàn bộ, hoại tử mô, và tổn thương cơ, gân, hoặc các cấu trúc hỗ trợ khác.
Không thể phân giai đoạn
Các thương tổn do tì đè được đặc trưng bởi sự dày da và mất mô, trong đó mức độ tổn thương mô không thể xác định được vì nó bị che khuất bởi các mảnh vụn, mảnh vụn.
Nếu lớp vảy hoặc mảng mô chết đóng vảy được loại bỏ, thương tổn do tì đè giai đoạn 3 hoặc giai đoạn 4 sẽ được bộc lộ.
Các tổn thương gót chân không ổn định, không gây vết loét với hoại tử khô không bao giờ nên phân giai đoạn.
Chấn thương mô sâu
Biểu hiện bao gồm vùng da màu tím đến màu hạt dẻ của da còn nguyên vẹn, và mụn nước, bọng nước đầy máu hoặc chất nhầy.
Khu vực này có thể cảm thấy cứng hơn, nhầy hơn, ấm hơn, hoặc mát hơn so với các mô xung quanh.
Thương tổn do tì đè liên quan đến thiết bị y tế
Thương tổn do tì đè liên quan đến thiết bị y tế đã được mở rộng để bao gồm thương tổn do thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE), bao gồm khẩu trang, mặt nạ áp lực dương liên tục (CPAP), ống oxy và các thiết bị khác được sử dụng để ngăn ngừa hoặc kiểm soát các tình trạng hô hấp như như là COPD hoặc COVID-19. Ví dụ về thương tổn do tì đè liên quan đến thiết bị bao gồm tổn thương da do độ ẩm (MASD) và rách da.
Tổn thương áp lực niêm mạc
Xuất hiện trên màng nhầy, nơi các thiết bị y tế đã được sử dụng (ví dụ, hàm giả, ống nội khí quản.
IV. Chẩn đoán thương tổn do tì đè
Chẩn đoán loét tì đè dựa trên đánh giá lâm sàng và dinh dưỡng
Một chấn thương do áp lực thường được xác định bởi sự xuất hiện đặc trưng của nó và bởi vị trí của nó trên xương.
Việc xếp loại giai đoạn và chụp ảnh vết thương là điều cần thiết để theo dõi sự tiến triển hoặc lành tổn thương.
Có thang điểm đánh giá lành tổn thương. Pressure Ulcer Scale for Healing (PUSH) (Thang điểm đánh giá mức độ lành của loét do tì đè),
Đánh giá dinh dưỡng được khuyến cáo ở những người bệnh có các thương tổn do tì đè, đặc biệt là những người có các thương tổn do tì đè giai đoạn 3 hoặc 4.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng được thực hiện tốt nhất bằng bệnh sử và khám thực thể vì các chất chỉ điểm:albumin và protein
V. Điều trị thương tổn do tì đè
* Giảm áp lực
* Chăm sóc vết thương trực tiếp
* Quản lý đau
* Kiểm soát nhiễm trùng
* Đánh giá nhu cầu dinh dưỡng
* Phẫu thuật hoặc trị liệu bổ sung
Việc điều trị cho người bệnh bị loét do tì đè cần tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Dùng các loại thuốc gì để diều trị là do bác sĩ điều trị chỉ định (ví dụ, Sanyrene, kháng sinh, nội tiết tố, tia cực tím, nước biển, men, đường, mỡ y học, bột xốp, axít tanic, axít boric…), người nhà không nên nghe mách bảo của người khác hoặc không tự ý mua thuốc để điều trị. Việc có cần thiết cắt lọc vết loét hay không là tùy thuộc điều kiện và chuyên môn ở từng cơ sở với mục tiêu là làm thế nào vết loét càng nhanh liền sẹo càng tốt.